Hương mật rừng tràm - Nét đẹp nghề gác kèo ong U Minh

Nghề gác kèo ong là một nghề truyền thống lâu đời của người dân miền Nam Bộ, đặc biệt là ở khu vực U Minh Hạ, Cà Mau. Nghề này gắn liền với rừng tràm, nơi sinh sống của nhiều đàn ong rừng hoang dã. Ở đây, rừng tràm không chỉ là biểu tượng của vùng đất cuối trời Tổ quốc mà còn là môi trường sống lý tưởng cho các đàn ong. Mỗi khi cây tràm trổ bông, những con ong cần mẫn đi hút nhụy hoa, tạo điều kiện cho người dân hình thành nên nghề gác kèo ong truyền thống. Đây là quá trình dựng nhà để dẫn dụ ong làm tổ, một nghề thủ công có từ lâu đời, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và góp phần tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo của vùng đất U Minh Hạ.

1. Lịch sử hình thành
Nghề gác kèo ong hình thành từ những ngày đầu tiên con người đặt chân đến vùng đất U Minh khai hoang mở cõi, khoảng nửa cuối thế kỷ XIX. Trong cuốn sách U Minh chim và ong của tác giả Anh Động thì cho rằng “Từ thời Mạc Cửu (1655-1735) khai mở đất Hà Tiên, nghề gác kèo ong hình thành. Nhưng thịnh hành và có tổ chức, kỷ luật nhất là những thập niên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Tiếng “ăn ong” người ta thường dùng cho vùng U Minh từ nam sông Cái Lớn trở xuống Cà Mau, vùng bắc sông Cái Lớn trở lên Hà Tiên thì gọi là “lội ong”. Bởi “ăn ong” là phần người ta phải gác kèo nhử ong về đóng ổ, còn “lội ong” là theo vèo nhắm hướng tìm bắt ong tự nhiên”.
 

Ít ai biết rằng, buổi ban đầu mở đất, thì sáp ong chứ không phải mật ong mới là thứ sản vật mà người khai hoang chú ý đến. Rừng tràm nguyên sinh của U Minh xưa kia, ong Mật làm tổ dày đặc, lâu ngày không ai thu hoạch nên tổ ong rụng xuống trôi lềnh bềnh trên sông. Khi dân lưu tán đến, họ bắt đầu khai thác sáp ong bán cho các ghe buôn để làm đèn cầy. Có những tổ ong to bằng cỡ bộ dáng, người “ăn ong” leo lên cây, dùng dao cắt lấy từng phần, vắt bỏ mật, lấy sáp rồi khiêng về. Khi thiếu đường ăn, thợ rừng mới lấy một ít mật đem nấu thành đường để dùng.
 

Theo lệ xưa từ Triều Nguyễn cho đến khi người Pháp đến, sáp ong được xem là món hàng quý thông dụng nhất để hối lộ, hành vi này được gọi khôi hài là “đút sáp”. Việc khai thác tổ ong theo lối lấy sáp bỏ mật của những thợ rừng U Minh kéo dài mãi đến tận những thập niên cuối của thế kỷ XX. Khi có người từ miền xa đến tận bìa rừng U Minh tìm mua mật ong, tình hình mới thay đổi. Mật ong U Minh nhanh chóng nổi tiếng khắp vùng, bởi độ thơm ngon và bổ dưỡng ít nơi đâu sánh bằng. Từ đó, các thợ rừng mới bắt đầu lùng sục tìm mật.

Tuy nhiên, nguồn tài nguyên thiên nhiên không phải là vô tận, các thợ rừng U Minh ngày càng phải đi sâu hơn vào rừng để tìm mật, vừa vất vả lại vừa nguy hiểm. Thế là họ nghĩ ra cách dùng những khúc cây dài gác xiêng trên những thân tràm, gọi là gác kèo, tạo nơi cho ong làm tổ, nghề gác kèo ong ở U Minh ra đời từ đó.

2. Nghề gác kèo ong ngày xưa
Kỹ thuật gác kèo ong ngày xưa khá đơn giản. Người ta sử dụng những khúc gỗ to, dài khoảng 10-15 mét để làm kèo, sau đó chôn sâu xuống đất và buộc chặt bằng dây thừng. Trên đỉnh kèo, họ đặt một chiếc thùng gỗ hoặc hũ sành để làm tổ cho ong. Mật ong thu hoạch được từ nghề gác kèo ong ngày xưa thường có chất lượng rất cao, thơm ngon và nguyên chất. Tuy nhiên, do điều kiện thu hoạch khó khăn và nguy hiểm, sản lượng mật ong thu được không cao.
 

Khi nghề gác kèo ong ở U Minh đang phát đạt, diện tích rừng để khai thác mật ong bị thu hẹp vì thỉnh thoảng rừng cháy, ong bỏ tổ đi nơi khác. Đặc biệt, trận bão lụt năm Thìn (1904) đã khiến đa số rừng tràm bị ngã sập. Tai họa này khiến chính quyền địa phương phải ban hành lệnh nghiêm cấm người vào rừng trong mùa khô, chấm dứt hẳn mùa “ăn ong hạn” của dân phong ngạn.

3. Nghề gác kèo ong ngày nay
Đi cùng với nạn cháy rừng là việc nhà nước thực hiện chính sách giao khoán đất đai. Nông dân đã có thể tự chủ động tổ chức trồng tràm và gác kèo trên chính phần đất của mình. Rừng trồng khoảng 3 năm là có thể thu hút ong về làm tổ, nhưng theo các thợ rừng giàu kinh nghiệm, tuổi tràm khai thác tốt nhất là trên 10 năm.
 

Ngày nay, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nghề gác kèo ong đã có nhiều thay đổi. Người ta sử dụng các loại dụng cụ hiện đại để hỗ trợ việc gác kèo và thu hoạch mật ong, giúp giảm thiểu nguy hiểm. Kỹ thuật gác kèo ong cũng được cải tiến, với việc sử dụng các loại kèo bằng kim loại hoặc xi măng, có độ bền cao hơn và an toàn hơn. Nhờ những thay đổi này, nghề gác kèo ong ngày nay đã trở nên dễ dàng và an toàn hơn, giúp người dân có thể thu hoạch được nhiều mật ong hơn. Mật ong gác kèo ong cũng được tiêu thụ rộng rãi trên thị trường, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân địa phương.

4. Nghề gác kèo ong - Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
Nghề gác kèo ong là một nghề truyền thống lâu đời của người dân miền Nam Bộ, đặc biệt là ở khu vực U Minh Hạ, Cà Mau. Nghề này đã có nhiều thay đổi theo thời gian, từ cách thức gác kèo đến kỹ thuật thu hoạch mật ong. Tuy nhiên, giá trị văn hóa và lịch sử của nghề gác kèo ong vẫn được gìn giữ và phát huy, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo của vùng đất U Minh Hạ.

Năm 2019, nghề gác kèo ong của người dân U Minh Hạ tỉnh Cà Mau đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đây là sự ghi nhận cho giá trị văn hóa và lịch sử lâu đời của nghề gác kèo ong, đồng thời cũng là trách nhiệm để bảo tồn và phát huy di sản văn hóa độc đáo này.

Câu Hỏi Thường Gặp

Bài viết liên quan