Những phong tục, tín ngưỡng và các lễ hội truyền thống của người Nam Bộ

Phong tục của người Nam Bộ gắn liền với nét đẹp của vùng đất chín rồng, nhắc đến Nam bộ người ta thường nghĩ đến một vùng đất với con người chân chất, phóng khoáng. 

Phong tục người Nam Bộ còn được thể hiện qua ẩm thực độc đáo. Với đặc sản phong phú từ các vùng miền, các món ăn của người Nam Bộ thường được biết đến với hương vị đặc trưng và tinh tế trong cách chế biến. Các món như bánh xèo, bánh mì bò kho, cơm tấm, bún riêu,... tất cả đều là món yêu thích đều được xuất hiện trong các bữa tiệc hoặc buổi họp mặt. 
 

Ngoài ra phong tục về ẩm thực Nam Bộ cũng được biết đến nhiều về trang phục như áo bà ba, quần dài và khăn rằn tuy những trang phục giản dị, mộc mạc nhưng lại mang nét đẹp riêng của vùng đất Nam Bộ.

Hơn thế nữa phong tục người Nam Bộ cũng được bắt nguồn từ đồng bằng Trung và Nam Trung Bộ nhưng nó tiếp thu thêm nhiều yếu tố từ phong tục của người KHmer, người Hoa. Chẳng hạn như hầu hết người nam bộ vẫn giữ tập quán giẫy mả vào ngày 25 tháng chạp trước khi làm lễ đón ông bà vào ngày 30 tháng chạp âm lịch, nhưng một số bộ phận người Nam Bộ cũng theo tập quán tảo mộ vào tiết Thanh minh tháng Ba âm lịch giống như người Hoa. 

Tín ngưỡng ở Nam Bộ rât đa dạng và độc đáo được thể hiện qua sự giao thoa của nhiều yếu tố văn hoá khác nhau. Chẳng hạn tín ngưỡng bản địa thờ cúng các vị thần linh thiêng gắn liền với đời sống sinh hoạt như Ông Địa, Bà Hoả, Thần Nông. Tín ngưỡng Phật giáo tôn thờ đức phật và các vị Bồ Tát, thể hiện qua việc xây dựng chùa chiền, tổ chức các lễ hội phật giáo. Tín ngưỡng Đạo giáo thờ cúng các vị thần tiên trong Đạo giáo như Ngọc Hoàng Thượng đế, Thổ Công, Táo Quân ,..Tín ngưỡng Nho giáo tôn thờ các bậc hiền nhân, thể hiện qua việc thờ cúng khổng tử, các vị tổ tiên.Tín ngưỡng dân gian thờ cúng các vị anh hùng dân tộc, các vị thánh, các nhân vật lịch sử có ảnh hưởng đến đời sống văn hoá. Tín ngưỡng Nam Bộ có nét đặc trưng rõ rệt nó mang tính thực tiễn khá cao hướng đến việc cầu mong cuộc sống sung túc, an khang, mùa màng bội thu, quốc thái an dân. Những tín ngưỡng đó mang tính cộng đồng nhiều hơn là cá nhân, các hoạt động tín ngưỡng thưởng tổ chức tập thể, thể hiện tinh thần đoàn kết, gắn bó trong cộng đồng. Các tín ngưỡng khác nhau cùng tồn tại và hoà hợp, tạo nên một bức tranh văn hoá đa dạng và phong phú. Một vài tín ngưỡng người Nam Bộ theo như là Thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam ( cầu bình an, may mắn), Thờ Ông Địa (mong sự sung túc, an khang),...
 

Tương tự như phong tục và tín ngưỡng, lễ hội truyền thống của Nam Bộ cũng rất đa dạng bao gồm bốn loại lễ hội: Tín ngưỡng - tôn giáo,  Nông nghiệp, Văn hoá - lịch sử, ngư nghiệp. Tất cả đều mang sắc thái Nam Bộ mặc dù nhiều lễ hội bắt nguồn từ Trung Bộ. Lễ hội tín ngưỡng – tôn giáo bao gồm các lễ hội thường niên của đạo Phật, đạo Cao Đài, đạo Hòa Hảo, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành, hội đền Linh Sơn Thánh mẫu ở núi Bà Đen… Nhưng lớn nhất vẫn là lễ hội Vía Bà Chúa Xứ ở núi Sam, Châu Đốc, một lễ hội đặc trưng của cư dân Nam Bộ, hằng năm thu hút đến 2,5 triệu người hành hương và du khách. Ở các đình làng, thường xuyên có các lễ hội Kỳ yên tiến hành vào đầu năm và cuối năm, để tạ ơn Thành hoàng Bổn cảnh, thần linh và các bậc tiền hiền, hậu hiền có công khai khẩn, khai cơ, giúp dân an cư lạc nghiệp. Ở vùng ven biển, lễ hội Nghinh Ông là sự kiện quan trọng bậc nhất trong đời sống văn hoá và tâm linh của cư dân. Ở Bà Rịa-Vũng Tàu, nơi có 10 đền thờ cá voi, nhiều nhất ở miền Nam, bên cạnh lễ hội Nghinh Ông còn có lễ Lệ Cô Long Hải từ 10/2 đến 12/2 âm lịch để thờ cúng Mẫu – Nữ thần và kết hợp cúng thần biển. Ở Bến Tre, lễ hội Nghinh Ông tiến hành vào ngày 16/6 âm lịch hằng năm tại các các làng ven biển thuộc huyện Bình Đại, huyện Ba Tri. Trong ngày hội, tất cả tàu thuyền đánh cá đều về tập trung để nghinh Ông, tế lễ, vui chơi và ăn uống. Ở Cần Giờ (TP. Hồ Chí Minh), Vàm Láng (Tiền Giang)… đều có lễ hội Nghinh Ông trọng thể hằng năm. Lễ hội văn hoá – lịch sử bao gồm các lễ tết cổ truyền như tết Nguyên đán, tết Đoan ngọ…, các lễ hội tưởng niệm các danh nhân có công mở đất như Nguyễn Hữu Kính, Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu), Lê Văn Duyệt, Trần Thượng Xuyên, và lễ hội tưởng niệm các anh hùng dân tộc như Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Đốc binh Kiều, Phan Công Hớn, Ngô Tán Đước, Nguyễn Thanh Long, Trương Văn Rộng, Trần Công Thận… 
 

Người Khmer Nam Bộ theo đạo Phật Tiểu thừa Theravada, một tôn giáo mới du nhập từ thế kỷ XIII nhưng đã thay thế đạo Bà La Môn, chi phối rất sâu sắc đời sống của người Khmer. Đối với người Khmer, Phật là chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất, là đấng thiêng liêng nhất, còn sư sãi là những người thay Đức Phật để hoằng hóa độ sinh, vì vậy rất được mọi người tôn kính. Nam giới Khmer đều được trải qua một thời kỳ tu tập tại chùa để trở thành một con người hoàn thiện về nhân cách, phẩm chất, khả năng. Bên cạnh đạo Phật, người Khmer vẫn duy trì tín ngưỡng thờ Neak tà là các nam thần bảo hộ con người và đất đai trong một khu vực, dưới hình tượng là những viên đá cuội bóng láng. Còn tín ngưỡng thờ Arăk là bà tổ dòng họ mẫu hệ, bảo hộ gia đình, nhà, khu đất, rừng, vốn phổ biến dưới thời Pháp thuộc, thì nay đã hiếm thấy. Các lễ hội truyền thống của người Khmer bao gồm hai loại chính là các lễ hội có màu sắc Phật giáo (bon) như lễ Phật đản (bon Pisakh Bâuchea), lễ nhập hạ (bon Châul Vâssa), lễ cầu phước (bon Đa), lễ hội linh (bon Pchum Bôn), lễ tang (bon Sôp)…; và các lễ hội văn hoá – lịch sử (pithi) như lễ Tết (pithi Chôl Chnam Thmây, 14 - 15 - 16/4 dương lịch, gồm nghi lễ đắp các núi cát và tắm Phật, tảo mộ ông bà, vui chơi), lễ cúng tổ tiên (pithi Sen Đônta, 29/8 - 1/9 âm lịch Khmer), lễ cúng trăng (pithi Sâm Peak Preach Khe, còn gọi là lễ đút cốm dẹp – Âk Âmbok, 15/10 âm lịch, gồm nghi lễ cảm tạ thần Mặt Trăng bảo hộ mùa màng, điều hòa thời tiết, đem lại ấm no, tổ chức đua ghe ngo – Um tuk ngua)… Các nghi lễ vòng đời có lễ cắt tóc (đầy tháng), lễ giáp tuổi (12 tuổi), lễ đi tu cho nam giới, lễ cưới, lễ chúc thọ, và lễ tang dùng hình thức hỏa táng.
 

Người Hoa ở Nam Bộ phần nhiều theo các tín ngưỡng dân gian và thờ cúng tổ tiên. Hệ thống thần thánh của người Hoa rất phong phú và phức tạp. Các thần thánh được cộng đồng thờ cúng gồm Bà Thiên Hậu, Quan Thánh Đế Quân, Ngọc Hoàng, Ông Bổn, Khổng Tử… Trong đó, thánh nhân được thờ cúng nhiều hơn thần linh và Thiên Hậu Thánh Mẫu, Quan Thánh Đế Quân, Phước Đức Chánh Thần là ba vị thần được tôn sùng bậc nhất. Bên cạnh đó là hàng chục vị thần của các địa phương. Trong gia đình, người Hoa thờ các vị thần bảo hộ gia đình: Thiên Quan Tứ Phước, Môn Thần, Thổ Địa Bản Gia, Táo Quân, Ngũ Phương Ngũ Thổ Long Thần, Tiền Hậu Địa Chủ Tài Thần, Quan  m Bồ Tát, Thánh Mẫu, Quan Thánh Đế Quân, tổ tiên, tổ sư. Một số người Hoa cũng theo đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành. Vì vậy, người Hoa có rất nhiều lễ hội: tết Nguyên đán 1/1 âm lịch, vía Ngọc Hoàng 9/1, vía Quan Công 13/1, tết Thượng nguyên 15/1, ngày Hàn thực 3/3, vía Ông Bổn 15/3, tiết Thanh minh tháng 3, vía Bà Thiên Hậu 23/3, lễ tế Khổng Tử và 72 tiên nho, tết Đoan ngọ 5/5, ngày cúng cô hồn 15/7, tết Trung thu 15/8, ngày Hạ nguyên 15/10, tiết Đông chí 15/11; chưa kể các nghi lễ vòng đời.
 

Người Chăm Nam Bộ hầu hết đều theo đạo Hồi (Islam), tôn thờ Thượng đế Allah và lấy Kinh Qur’an làm kim chỉ nam cho hoạt động tín ngưỡng của mình. Các lễ hội truyền thống của người Chăm Nam Bộ chủ yếu là lễ hội tín ngưỡng – tôn giáo: lễ Tolakbala vào ngày Thứ tư tuần cuối tháng Safar (tháng 2 Hồi lịch) để cầu xin Thượng đế ban sự bình an, lễ kỷ niệm ngày sinh của Đấng Muhammad vào ngày 12 tháng Rabiul Awal (tháng 3), lễ Raya Iadil Fitrah vào ngày cuối cùng của tháng chay nhịn Ramadan (tháng 9). Các nghi lễ vòng đời gồm có lễ đặt tên, cắt tóc cho trẻ sơ sinh (cha kak buk), lễ thành niên thực hiện tiểu phẫu (khotan) ở bộ phận sinh dục khi con trai và con gái đến 15 tuổi, hôn lễ, và tang lễ dùng hình thức địa táng. Người Stiêng, người Chrau thì vẫn bảo tồn tín ngưỡng vạn vật hữu linh, phong tục và lễ hội gần gũi với các tộc người nói tiếng Mon - Khmer ở Tây Nguyên.

Phong tục, tín ngưỡng và lễ hội truyền thống là những nét đẹp văn hóa đặc trưng của người Nam Bộ, thể hiện tinh thần phóng khoáng, cởi mở, trọng tình nghĩa và hướng thiện. Những giá trị văn hóa này đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo của vùng đất Nam Bộ.

Câu Hỏi Thường Gặp

Bài viết liên quan