Môi trường văn hóa đa dạng, sôi động và sự biến đổi văn hóa Việt ở phương Nam

Từ khoảng cuối thế kỷ XVI cho đến thế kỷ XX, đến lượt các cộng đồng lưu dân người Việt, người Hoa, người Chăm nối tiếp nhau tiến vào Nam Bộ, chia nhau thai khẩn, đào kênh, canh tác, định cư, buôn bán, dần dần biến một vùng đất hoang vu rộng lớn thành những vùng nông nghiệp trù phú và những đô thị sầm uất. Nền văn hóa Nam Bộ từ đó đã hình thành như một kết quả dung hợp giữa cái nền là văn hóa Việt từ đồng bằng Trung và Nam Trung Bộ với những yếu tố tiếp biến từ văn hóa Chăm, Hoa, Khmer và cả phương Tây sau này.
 

Văn hóa của người Chăm không chỉ là một phần của di sản văn hóa lịch sử của Việt Nam mà còn là một nguồn cảm hứng quý báu cho sự phát triển và biến đổi của văn hóa Việt trên địa bàn Trung Bộ và Nam Bộ. Khi cư dân Việt di chuyển về phía Nam, họ không chỉ đem theo những kinh nghiệm và bài học từ cuộc sống trên núi, trong rừng và trên biển của người Chăm mà còn tiếp tục phát triển và mở rộng chúng trên một phạm vi địa lý mới.

Ngoài ra, các tôn giáo, thần linh, phong tục và lễ hội của cả hai dân tộc cũng đã hòa nhập và giao thoa, tạo nên một bức tranh tinh thần đa dạng và phong phú. Điều này không chỉ thể hiện trong việc tồn tại và phát triển của các ngôi đền thờ và những nghi lễ tôn giáo mà còn hiện hữu trong cuộc sống hàng ngày, từ cách ứng xử đến các hoạt động giải trí và văn hóa.

Trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và ngôn ngữ, sự ảnh hưởng của người Chăm cũng rõ ràng. Các câu chuyện dân gian, những bài thơ ca trữ tình và các tác phẩm nghệ thuật truyền thống đã được đan xen với các yếu tố văn hóa của người Chăm, tạo nên một di sản văn hóa độc đáo và phong phú.
 

Văn hoá người Hoa có tầm ảnh hưởng lớn đến nền văn hoá Việt Nói chung và Nam bộ nói riêng vì sau hơn ba thế kỷ cộng cư, cộng sinh, nền văn hóa này đã có nhiều đóng góp to lớn với văn hoá VIệt ở Nam Bộ. Hầu hết thì các bình diện văn hóa vật thể và phi vật thể của người Việt Nam Bộ đều có những dấu ấn đậm nhạt khác nhau của văn hóa người Hoa. Trong văn hóa mưu sinh, các hoạt động doanh thương rất thành công của người Hoa Nam Bộ (với biểu tượng là tứ trụ thời Pháp thuộc: Hứa Bồn Hoa, Quách Đàm, Hộ Xưởng, Trần Ích), đã góp phần thay đổi quan niệm trọng nông kinh thương của người Việt Nam, và góp phần thúc đẩy quá trình đô thị hóa ở Sài Gòn - Chợ Lớn và các tỉnh thành khác ở phía nam. Trong văn hóa ẩm thực, nhiều món ăn và kỹ thuật chế biến món ăn rất cầu kỳ của người Hoa đã được người Việt Nam Bộ tiếp nhận và biến đổi, khiến cho văn hóa ẩm thực Nam Bộ trở nên phong phú nhất trong tất cả các vùng miền. Trong văn hóa tín ngưỡng, các tôn giáo dân gian và hệ thống thần thánh rất phong phú của người Hoa đã được người Việt Nam Bộ tiếp biến gần như trọn vẹn: các thần thánh được cộng đồng thờ cúng gồm Thiên Hậu Thánh Mẫu (Việt: Bà Thiên Hậu), Quan Thánh Đế Quân (Việt: Quan Công), Ngọc Hoàng (Việt: Ngọc Hoàng), Bổn Đầu Công (Việt: Ông Bổn)…; các vị thần bảo hộ gia đình: Thiên Quan Tứ Phước (Việt: Ông Thiên), Thổ Địa Bản Gia (Việt: Ông Địa), Táo Quân (Việt: Ông Táo), Ngũ Phương Ngũ Thổ Long Thần, Tiền Hậu Địa Chủ Tài Thần (Việt: Thần Tài), Quan  m Bồ Tát (Việt: Phật Bà Quan  m), Thánh Mẫu, Quan Thánh Đế Quân, tổ sư các nghề thủ công tinh xảo. Người Việt Nam Bộ tiếp thu Nho giáo và học thuật của Trung Hoa, một phần cũng là nhờ vai trò cầu nối của những trí thức Minh Hương và trí thức người Hoa Nam Bộ như Võ Trường Toản, Gia Định tam gia (Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tĩnh), Gia Định tam hùng (Đỗ Thành Nhân, Võ Tánh, Châu Văn Tiếp), Ngô Tùng Châu, Trần Tiễn Thành, Phan Thanh Giản... Trong văn hóa phong tục, các phong tục vòng đời của người Hoa đều có ảnh hưởng ít nhiều đến phong tục vòng đời của người Việt Nam Bộ: sinh sản (đầy tháng, thôi nôi), hôn lễ, tang lễ, chăm sóc mộ phần và thờ cúng tổ tiên. Trong văn hóa lễ hội, hầu hết các lễ hội truyền thống của người Hoa Nam Bộ như tết Nguyên đán 1/1 (âm lịch), vía Ngọc Hoàng 9/1, vía Quan Công 13/1, tết Thượng nguyên 15/1, ngày Hàn thực 3/3, vía Ông Bổn 15/3, tiết Thanh minh tháng 3, vía Bà Thiên Hậu 23/3, tết Đoan ngọ 5/5, ngày cúng cô hồn 15/7, tết Trung thu 15/8, ngày Hạ nguyên 15/10... cũng là ngày lễ hoặc ngày hội của người Việt trong vùng. Những ảnh hưởng này không chỉ do giá trị và sức hấp dẫn của văn hóa người Hoa mà còn do quá trình đồng hóa tự nhiên thành người Việt của các thế hệ người Hoa. Khi trở thành người Việt, họ đã chuyển giao cho văn hóa người Việt Nam Bộ các giá trị văn hóa tộc người của tổ tiên mình.
 

Văn hóa của người Khmer đã có sự tiếp biến và ảnh hưởng đáng kể đến văn hóa Nam Bộ của Việt Nam. Trong đó, ảnh hưởng chủ yếu được thể hiện qua văn hóa ẩm thực, tín ngưỡng và lễ hội. Các món ăn như mắm, canh chua và các phong tục thờ cúng như Ne-ak Ta đã từ lâu trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa ẩm thực và tín ngưỡng của người Việt Nam Bộ. Đặc biệt, việc thờ cúng Ông Tà - ông thần mới đã gia nhập vào danh sách thần đất đai của người Việt, thể hiện sự hòa nhập và tiếp biến văn hóa tôn giáo giữa hai dân tộc. Ngoài ra, các lễ hội dân gian của người Khmer cũng đã trở thành một phần không thể tách rời trong văn hóa Nam Bộ. Sự tham gia của người Việt vào các lễ hội này không chỉ là việc tham gia vào một sự kiện giải trí mà còn là việc tôn trọng và kế thừa những giá trị văn hóa của người Khmer. Những ảnh hưởng này cũng được phản ánh trong bộ phận từ vựng gốc Khmer trong tiếng Việt Nam Bộ. Từ những từ vựng này, có thể nhìn nhận rõ những bình diện văn hóa của người Việt Nam Bộ chịu ảnh hưởng từ người Khmer, từ cách thức hoạt động sản xuất, cách thức ăn uống, mặc áo, cách tổ chức xã hội đến tín ngưỡng, phong tục và ngôn ngữ. Điều này cũng được minh họa thông qua việc các địa danh gốc Khmer rải rác khắp địa bàn Nam Bộ, là một dấu ấn rõ nét của sự giao thoa văn hóa giữa hai dân tộc.

Như vậy, chúng ta biết không gian văn hóa Nam Bộ là phần mở rộng của không gian văn hóa Việt Nam trên một vùng đất mới mà ở đó, tộc người Việt cùng chia sẻ không gian văn hóa đồng bằng với ba tộc người thiểu số có nền văn hóa phát triển và có những thế mạnh văn hóa khác nhau: Hoa, Khmer, Chăm; chưa kể các nhóm cư dân khác đến từ mọi miền đất nước. Đây cũng là nơi mà người Việt tiếp xúc thuận lợi nhất với Đông Nam Á, và là nơi văn hóa Việt tiếp xúc lâu dài nhất với văn hóa phương Tây. Tất cả điều đó đã biến Nam Bộ thành một vùng đất mà giao lưu tiếp biến văn hoá diễn ra với tốc độ rất nhanh. KếtHệ quả là đã có sự tiếp biến, và sự giao thoa của văn hoá cho nên ở đây có bóng dáng của những nền văn hóa khác. Nó khiến cho văn hóa Nam Bộ vừa tương đồng lại vừa khác biệt với văn hóa Việt ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ.

Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là văn hóa Nam Bộ chỉ là con số cộng các luồng văn hóa đã hội tụ nơi đây. Trong quá trình giao lưu văn hoá, cư dân Việt nơi đây đã không tiếp thu hết các nền văn hóa khác mà chỉ những yếu tố đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần để bổ sung vào hành trang văn hóa mang theo. Tiêu biểu là những sản phẩm văn hóa gốc phương Tây hoặc có ảnh hưởng của phương Tây như chữ Quốc ngữ, nhà in, báo chí, tiểu thuyết, thơ mới, trường học kiểu phương Tây,  u phục, áo dài... Những sản phẩm ấy đều được Việt hóa trong quá trình du nhập vào Nam Bộ và phổ biến đến các vùng miền khác. Vì vậy có thể nói rằng, dù văn hóa Việt nơi đây ít chất thuần Việt nhưng nó vẫn không tự đánh mất mình. Đúng hơn, nó vừa tự thân biến đổi để thích ứng với các giá trị văn hóa mới, vừa thu nạp được, tái tạo được các giá trị văn hóa mới thích ứng với văn hóa Việt, với nhu cầu của người Việt trên vùng đất mới.

Câu Hỏi Thường Gặp

Bài viết liên quan