Nam Bộ, vùng đất phía Nam của Tổ quốc, từ những lớp người mang khát vọng chinh phục miền đất mới, đã dần hình thành nên những giá trị văn hóa riêng biệt. Trong diễn trình lịch sử hơn 300 năm, Nam Bộ đã chứng kiến sự xuất hiện của nhiều bậc tài danh mà tên tuổi đã khắc ghi vào lịch sử như Sùng Đức tử sĩ Võ Trường Toản, đại thần Phan Thanh Giản, đốc học Nguyễn Thông. Những danh nhân ấy đã góp phần quan trọng tạo nên bản sắc văn hóa và tinh thần của người Nam Bộ.
1. Sùng Đức tử sĩ Võ Trường Toản - Người thầy của những nhân tài
Vào cuối thế kỷ 17, Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh đã dâng lệnh chúa Nguyễn Kinh Lược phía Nam, thiết lập nền hành chính trên vùng đất Nam Bộ. Là vùng đất mới, cư dân đến từ nhiều nơi với nhiều tập quán khác nhau, nền giáo dục ở Nam Bộ còn sơ khai, nhưng không vì thế mà thiếu đi những con người hướng thượng. Trong thế kỷ 18, nền Nho học phương Bắc cũng phát triển trên
vùng đất phương Nam và có sự thích nghi với hiện thực để Nho học hàn lâm đi vào thực tế cuộc sống. Là người đặt nền móng cho Nho học phương Nam thầy giáo Võ Trường Toản được xếp vào hàng sư biểu, nhà giáo đức độ tài ba lỗi lạc ở đất Nam Kỳ.
Theo sách địa chí Bến Tre, Võ Trường Toản là người huyện Bình Dương, Phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Với kiến thức sâu rộng nên khi ông mở lớp dạy chữ rất nhiều gia đình đã cho con em theo học. Thầy Võ Trường Toản không rơi vào lối dạy máy móc mà hướng học trò vào thực học, thấu hiểu nội dung chứ không học thuộc lòng. Cách dạy này gọi là “chuyên môn dưỡng khí”, tức hiểu rõ lời dạy và nuôi dưỡng khí phách làm việc nghĩa. Nhìn vào lớp học trò của thầy như Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định và Trịnh Hoài Đức, những người được mệnh danh là Gia Định tam bảo, đủ chứng minh thầy là bậc vạn thế sư biểu. Những nho sĩ thuộc thế hệ sau như Nguyễn Đình Chiểu, Huỳnh Mẫn Đạt, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Hữu Quân đều tiếp nhận tích cực đạo đức học phong sĩ khí của thầy Võ Trường Toản nên đã giữ tròn khí tiết khi nước nhà bị xâm lược điều đó cũng nói lên lòng tôn kính ngưỡng mộ tự hào về một người thầy đã làm rạng danh dục đất Nam kỳ. Khi thầy Võ Trường Toản quy tiên vào tháng 7 năm 1792 Chúa Nguyễn cảm mến ban từ hiệu là “Gia Định xử sĩ Sùng Đức Võ tiên sinh” để ghi vào bia mộ.
2. Đại thần Phan Thanh Giản - Tiến sĩ đầu tiên của Nam Kỳ Lục Tỉnh
Đại thần Phan Thanh Giản, một vị quan triều Nguyễn, là người tiếp thu sâu sắc tư tưởng thực học của thầy Võ Trường Toản. Sinh năm 1796 trong một gia đình nghèo ở làng Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, ông sớm mồ côi mẹ và theo cha làm thủ hợp, một chức quan nhỏ. Năm 1815 vì sự cáo gian của kẻ tư thù, cha cụ phải ngồi tù, cụ xin với quan lương hiệp trấn ở Vĩnh Long cho mình vào làm lao dịch thay cha. Cảm động trước tấm lòng hiếu thảo của cụ, quan lương hiệp trấn Vĩnh Long đã cho phép cụ ở gần nơi cha bị giam để vừa học tập vừa chăm sóc cha. Sau khi cha ra tù, Phan Thanh Giản ở lại Vĩnh Long để tiếp tục theo đuổi đèn sách.
Năm 1825 cụ Phan đậu cử nhân, năm sau đó thì đỗ Đệ Tam Giáp Đồng Tiến Sĩ khi vừa tròn 30 tuổi. Cụ Phan Thanh Giản là tiến sĩ đầu tiên của đất Nam Kỳ, 30 năm sau 1856 mới có vị tiến sĩ gốc Nam Kỳ thứ hai là Phan Hiển Đạo.
Suốt 32 năm làm quan dưới triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, Phan Thanh Giản đã trải qua nhiều chức vụ quan trọng như Hiệp biện Đại học sĩ, Thượng thư Bộ Lại, Kinh lược phó sứ Nam Kỳ, Thượng thư Bộ Hình, Chánh tổng tài Quốc sử quán và Kinh lược sứ Nam Kỳ.
Tuy nhiên, vào năm 1867, do không giữ được thành Vĩnh Long và để ba tỉnh Tây Nam Kỳ rơi vào tay quân Pháp, cụ Phan Thanh Giản đã tuẫn tiết để giữ gìn khí tiết của một vị quan triều Nguyễn. Mộ phần của cụ được an táng tại làng Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Ngôi mộ đơn sơ như của một dân thường, nhưng trên phần mộ có khắc những dòng chữ ghi lại cuộc đời đầy thăng trầm của một vị quan tài ba, một người con ưu tú của đất nước.
3. Đốc học Nguyễn Thông - Người học trò nghèo dốc lòng cho sự nghiệp giáo dục
Đốc học Nguyễn Thông, sinh vào tháng 7 năm 1827, là một nhà nho yêu nước, nhà giáo dục lỗi lạc của Nam Bộ thế kỷ 19. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo ở thôn Bình Thanh, tổng Kiến Thạnh, huyện Kiến Hòa, phủ Tân An, tỉnh Gia Định (nay là tỉnh Long An). Cuộc đời của đốc học Nguyễn Thông đầy rẫy những gian nan. Mẹ ông mất khi ông mới lên 10 tuổi, cha ông - một nhà nho nghèo dạy học - cũng qua đời khi ông 17 tuổi. Hoàn cảnh khó khăn không ngăn được ước mơ của chàng nho sinh Nguyễn Thông ngày ấy.
Năm 1844, Nguyễn Thông khăn gói ra kinh đô Huế để theo học với quan đại thần Phan Thanh Giản. Năm 1849, ông tham dự kỳ thi Hương tại Gia Định và đỗ Á Nguyên trong số hàng ngàn thí sinh dự thi. Hai năm sau, ông ra kinh đô Huế dự thi Hội nhưng không may mắn đỗ. Với tài năng và phẩm chất của mình, Nguyễn Thông đã được chủ khảo ghi nhận và khuyên ông ở lại kinh ôn luyện cho kỳ thi năm sau. Tuy nhiên, do hoàn cảnh khó khăn, ông đành phải trở về miền Nam. Năm 1851, Nguyễn Thông được bổ nhiệm chức Huấn Đạo huyện Phú Phong, tỉnh An Giang, phụ trách giáo dục của một huyện. Sau khi được đề cử làm đốc học tỉnh Vĩnh Long, ông đã để lại những dấu ấn đậm nét trong lĩnh vực giáo dục. Ông quan niệm rằng “chỉ có việc học mới có thể đưa một dân tộc trở nên cường thịnh mà đánh đuổi được ngoại bang xâm nhập bờ cõi, chỉ có học mới giúp cho dân tộc có nội lực để phát triển về sau”.
Khi sáu tỉnh Nam Kỳ bị Pháp chiếm đóng, đốc học Nguyễn Thông tỵ địa ra Bình Thuận. Tại đây, ông được vua Tự Đức triệu về kinh thành. Làm việc tại kinh thành, ông luôn đau đáu nỗi lo nước mất nhà tan. Ông đã dâng sớ điều trần 4 việc nội trị, gồm chọn nhân tài, cải tiến rõ lượt đánh thuế, dùng chính sách khoan hậu và những nội dung ông đề đạt đều được vua Tự Đức chuẩn y. Ngoài ra, ông còn đề xuất khẩn hoang vùng Tây Nguyên để kháng Pháp và khẳng định chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam.
Tài năng và nhân cách của đốc học Nguyễn Thông là tấm gương sáng đại diện cho những trí thức chân chính, những con người trải qua nhiều thăng trầm song vẫn luôn giữ trọn lòng trung hiếu sắc son hướng về đất nước và nhân dân. Đó cũng là dấu ấn của ông trong lòng mọi người.
4. Những giá trị truyền thống tốt đẹp của vùng đất Nam Bộ
Những danh nhân này không chỉ đóng góp cho giáo dục mà còn để lại dấu ấn sâu sắc về lòng trung hiếu, tinh thần yêu nước và đóng góp vào sự phát triển của
vùng đất Nam Bộ. Lòng trung hiếu được thể hiện qua sự hiếu thảo với cha mẹ, sự trung thành với triều đình và đất nước. Tinh thần yêu nước được thể hiện qua ý chí quyết tâm bảo vệ bờ cõi, chống lại giặc ngoại xâm. Những đóng góp vào sự phát triển của vùng đất Nam Bộ được thể hiện qua việc xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh.
Những giá trị truyền thống tốt đẹp này đã tạo nên nét đặc trưng của người Nam Bộ, đó là những con người chất phác, chân thành, yêu quê hương, đất nước và luôn sẵn sàng hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc.
Nhìn về tương lai, những giá trị truyền thống tốt đẹp này sẽ tiếp tục được phát huy và lan tỏa, góp phần xây dựng Nam Bộ trở thành một vùng đất phát triển, giàu bản sắc văn hóa và tinh thần bất khuất. Thế hệ trẻ có trách nhiệm hồn học và noi theo tấm gương sáng của những bậc tiền nhân, giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của quê hương, đất nước. Bằng cách đó,
Nam Bộ sẽ mãi mãi là một vùng đất anh hùng, một vùng đất giàu truyền thống văn hóa và tinh thần bất khuất.